Rào cản thương mại trong hoạt động xuất khẩu nông sản
Cùng với những mặt tích cực từ quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, số lượng FTA được đàm phán và ký kết ngày càng gia tăng, thì một trong những mặt trái là hoạt động xuất khẩu nông sản của nước ta phải đối mặt với các rào cản thương mại ngày càng phức tạp và khắt khe. Nông sản Việt phải cạnh tranh gay gắt với nông sản của nhiều nước. Để vào được thị trường Mỹ, Hàn Quốc,, Australia… sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và các quy định kỹ thuật khắc khe của đối tác.

Đơn cử mới đây, một lô hàng rau quả của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị phát hiện có chất carbendazim (chất diệt nấm) được sử dụng nhiều trong trồng cây ăn quả. Lô hàng của nhà nhập khẩu Mỹ bị cơ quan chức năng nước này tiêu hủy và phạt hơn 50.000USD, sau đó nhà nhập khẩu đã gửi cảnh báo cho phía doanh nghiệp Việt, nếu còn vi phạm chất cấm thì nguy cơ sẽ mất thị trường xuất khẩu. Hoặc vừa qua sáu thị trường gồm: Australia, Hàn Quốc, Ả Rập Saudi, Trung Quốc, Brazil và Mexico đã yêu cầu các lô hàng tôm của Việt Nam phải xuất phát từ cơ sở an toàn dịch bệnh, nếu không  thì từng lô phải có chứng nhận sạch bệnh đối với sản phẩm tôm chưa nấu chín.

Để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới, theo các chuyên gia cần chú trọng thực hiện một số biện pháp sau:

Về phía Nhà nước:

Tăng cường đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống thông tin về thị trường nông sản trên thế giới để phục vụ cho doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và xuất nhập khẩu hàng nông sản phù hợp, tránh thiệt hại và giảm những rủi ro không đáng có cho doanh nghiệp và nông dân.

Bổ sung và điều chỉnh các chính sách theo hướng thu hút đầu tư cho ngành nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật vừa xây dựng hình ảnh, nâng cao thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tiếp tục đổi mới các hình thức xúc tiến thương mại đối với mặt hàng nông sản, đặc biệt là nông sản chủ lực. Đối với thị trường nhập khẩu lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Hàn thì cần có sự trao đổi giữa các nhà đầu tư với nhau, tìm kiếm cơ hội hợp tác để hình thành chuỗi giá trị toàn cầu.

Về lâu dài, Nhà nước cần quy hoạch các vùng sản xuất, nuôi trồng thích hợp, cần có sự điều phối theo nhu cầu xuất khẩu của thị trường. Đối với những mặt hang ở thị trường có chính sách bảo hộ hay rào cản kỹ thuật cao thì cần hỗ trợ đầu tư phát triển ứng dụng công nghệ cao, các kỹ thuật tiên tiến từ khâu sản xuất đến chế biến, bảo quản chất lượng nông sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường.

Về phía doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu:

Nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu, đảm bảo đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc tế. Những yêu cầu của VietGap, Global Gap cần triển khai cho hầu hết các sản phẩm, bởi đây sẽ là yêu cầu của các thị trường nhập khẩu trong tương lai.

Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, doanh nghiệp cần lựa chọn chiến lược sản phẩm và chiến lược thâm nhập thị trường phù hợp với yêu cầu, tình hình thực tế của từng thị trường và khả năng của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp đồng bộ triển khai hiệu quả định hướng chiến lược xuất khẩu nông sản, tối đa hóa giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu bằng công nghệ sơ chế, chế biến tiên tiến và hiện đại. Trang bị những kiến thức thị trường và không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản: đây là công việc rất cần thiết đối với hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, giải pháp tối ưu là doanh nghiệp cần cung cấp các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có xuất sứ tốt để nâng tầm thương hiệu, xây dựng lòng tin đối với tiêu dùng.

Các doanh nghiệp xây dựng những chuẩn mực, tiêu chuẩn riêng của sản phẩm, thể hiện qua giấy chứng nhận bảo đảm sản phẩm có quy trình sản xuất, chất lượng tốt. Vì tính khách quan, giấy chứng nhận này sẽ do tổ chức phi chính phủ thực hiện. Nếu tuân thủ những điều này, việc xuất khẩu nông sản không chỉ dễ dàng, chi phí rẻ hơn, mà vị thế, giá trị sản phẩm của Việt Nam còn được nâng cao trong bối cảnh thị trường quốc tế đang cạnh tranh gay gắt.

Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường EU, các doanh nghiệp nông sản, thực phẩm của Việt Nam cần xác định thuế suất ưu đãi và các quy tắc xuất xứ từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ có hiệu lực từ năm 2018. Các doanh nghiệp cần tuân thủ mọi yêu cầu về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) của EU cũng như thực hiện các yêu cầu kỹ thuật, đóng gói, ghi nhãn…nhất là những quy tắc chung về vật liệu tiếp xúc với thực phẩm.

Theo VITIC